KENFOX IP & Law Office > DỊCH VỤ  > Việt Nam  > Sở hữu trí tuệ  > Vấn đề liên quan khác > Nộp đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam/Đăng ký sáng chế tại Việt Nam

Nộp đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam/Đăng ký sáng chế tại Việt Nam

1. Thủ tục thẩm định sáng chế tại Việt Nam có thể được giải quyết nhanh chóng khi người nộp đơn chủ động cung cấp các tài liệu theo quy định tại Điểm 15.2.b/(i), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN không? Làm thế nào thủ tục thẩm định diễn ra nhanh chóng?

Thủ tục thẩm định đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam có thể được đẩy nhanh hơn khi người nộp đơn cung cấp cho Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam các tài liệu theo quy định tại Điểm 15.2.b/(i), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, bao gồm: kết quả tra cứu thông tin hoặc kết quả thẩm định đơn đã nộp ở nước ngoài cho đối tượng nêu trong đơn; Bản sao văn bằng bảo hộ đã được cấp trên cơ sở đơn đồng dạng đã nộp ở nước ngoài; Tài liệu liên quan đến tình trạng kỹ thuật của đối tượng nêu trong đơn đăng ký sáng chế mà người nộp đơn được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cung cấp và tài liệu khác. Thời gian thẩm định đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam có thể được rút ngắn tùy thuộc vào các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như kết quả xét nghiệm hợp lệ đối với (các) đơn tương ứng được ban hành bởi (các) cơ quan sáng chế ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, CA, JP, RU, UK, SE, AT, ES, AU, CN, KR, DE, EPO, EAPO.

 

2. Khi nộp các tài liệu theo quy định tại Điểm 15.2.(a, b), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam có yêu cầu sửa đổi yêu cầu bảo hộ giống như đơn đã nộp ở nước ngoài không? Người nộp đơn có thể từ chối yêu cầu sửa đổi đó không? Nói cách khác, liệu các yêu cầu bảo hộ rộng hơn so với các đơn nộp ở nước ngoài có thể được cấp hay không?

Sau khi nộp hồ sơ theo quy định tại Điểm 15.2.(a, b), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, trên thực tế, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam thường yêu cầu người nộp đơn sửa đổi yêu cầu bảo hộ cho giống với đơn đã nộp ở nước ngoài (tức là phải tuân theo (các) đơn tương ứng). Người nộp đơn có quyền từ chối yêu cầu sửa đổi của thẩm định viên. Tuy nhiên, nếu các yêu cầu bảo hộ của đơn Việt Nam rộng hơn các yêu cầu bảo hộ của đơn tương đương được nộp ở nước ngoài, thì đơn Việt Nam sẽ không thể được cấp theo các yêu cầu bảo hộ của các đơn được nộp ở nước ngoài. Các yêu cầu bảo hộ rộng hơn này sẽ được thẩm định riêng biệt bởi các thẩm định viên.

 

3. Khi sửa đổi yêu cầu bảo hộ giống với đơn đã nộp ở nước ngoài, yêu cầu bảo hộ phải cùng phần phụ thuộc hay cùng loại yêu cầu (một phần hay hai phần)?

Thứ nhất, tại Việt Nam, cho phép nhiều điểm yêu cầu bảo hộ phụ thuộc trong một đơn đăng ký sáng chế. Hơn nữa, không có quy định nào về loại yêu cầu bảo hộ theo Luật SHTT Việt Nam và các Quy định. Theo Điều 23.6(i), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN quy định rằng “Phạm vi (yêu cầu) bảo hộ nên (nhưng không bắt buộc) được thể hiện thành hai phần: “Phần giới hạn” và “Phần khác biệt…”. Như vậy, khi người nộp đơn sửa đổi yêu cầu bảo hộ trong đơn sáng chế nộp tại Việt Nam để phù hợp với yêu cầu bảo hộ trong đơn tương ứng nộp ở nước ngoài, thì người đó có quyền sửa đổi yêu cầu bảo hộ cho giống với đơn đã nộp ở nước ngoài.

 

4. Cần lưu ý điều gì về bản mô tả sáng chế hoặc yêu cầu bảo hộ khi đơn PCT vào giai đoạn Việt Nam?

Một số điểm cần lưu ý:

Theo Điều 23.6(a), Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN, phần mô tả thuộc bản mô tả sáng chế phải bộc lộ hoàn toàn bản chất của giải pháp kỹ thuật được đăng ký. Trong phần mô tả phải có đầy đủ các thông tin đến mức căn cứ vào đó, bất kỳ người nào có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng đều có thể thực hiện được giải pháp đó; phải làm rõ tính mới, trình độ sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp của giải pháp kỹ thuật (nếu văn bằng bảo hộ yêu cầu được cấp là Bằng độc quyền sáng chế); làm rõ tính mới và khả năng áp dụng công nghiệp của giải pháp kỹ thuật (nếu văn bằng bảo hộ yêu cầu được cấp là Bằng độc quyền giải pháp hữu ích). Hơn nữa, theo Luật và các Quy định về SHTT Việt Nam, phần mô tả của đơn đăng ký sáng chế phải bao gồm các nội dung sau: tên sáng chế, lĩnh vực sử dụng sáng chế, tình trạng kỹ thuật của lĩnh vực đó, bản chất kỹ thuật của sáng chế, mô tả tóm tắt các hình vẽ, mô tả chi tiết các phương án và ví dụ thực hiện sáng chế. Ngoài ra, tên sáng chế phải phản ánh các đối tượng chính trong yêu cầu bảo hộ. Bên cạnh đó, các đối tượng trong yêu cầu bảo hộ, tên sáng chế và bản tóm tắt phải nhất quán với nhau. Thứ hai, liên quan đến các điểm yêu cầu bảo hộ, ngoài các yêu cầu bảo hộ trích dẫn đến phần mô tả, vui lòng lưu ý rằng, các điểm yêu cầu bảo hộ đề cập đến đối tượng “sử dụng” không còn được chấp nhận tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

 

5. Liệu việc thẩm định sáng chế có thể được tiến hành trước thời hạn tại Việt Nam theo Điều 9.3, Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hay không?

Việc thẩm định trước thời hạn có thể tiến hành khi nộp đơn yêu cầu thẩm định nhanh tới Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam theo Quy tắc 9.3, Thông tư 01/2007/TT-BKHCN đọc. Tuy nhiên, Cục SHTT Việt Nam không phải lúc nào cũng chấp nhận tiến hành thẩm định trước thời hạn các đơn đăng ký sáng chế, trừ trường hợp ngoại lệ do tồn đọng các đơn đăng ký sáng chế đang chờ xử lý. Chúng tôi đã nhiều lần yêu cầu Cục SHTT Việt Nam tiến hành thẩm định nhanh bằng công văn với những lý do thích hợp. Để tiến hành thẩm định trước thời hạn đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam, điều kiện tiên quyết là phải được sự chấp thuận trước của cả thẩm định viên chịu trách nhiệm và Trưởng phòng Sáng chế của Cục SHTT Việt Nam. Các thủ tục thẩm định có thể được đẩy nhanh đến mức nào bởi yêu cầu thẩm định trước thời hạn phần lớn phụ thuộc vào thẩm định viên phụ trách vụ việc. Trong một số trường hợp, bằng sáng chế được cấp trong vòng 12-18 tháng kể từ ngày nộp đơn tại Việt Nam. Trong các trường hợp khác, thời gian có thể là 24 – 30 tháng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, đơn yêu cầu thẩm định nhanh có thể dễ dàng được chấp nhận hơn nếu đơn đăng ký tương ứng ở ít nhất một trong các khu vực pháp lý như US, CA, JP, RU, UK, SE, AT, ES, AU, CN, KR, DE, EPO, EAPO đã được cấp bằng sáng chế và các điểm yêu cầu bảo hộ của đơn Việt Nam cũng giống với các điểm yêu cầu bảo hộ bằng sáng chế đã được cấp tại các khu vực tài phán nêu trên.

 

Thông báo từ chối đơn sáng chế tại Việt Nam

 

1. Có thể sửa đổi yêu cầu bảo hộ theo các quy định về bằng sáng chế của Việt Nam để kết hợp một dấu hiệu mới không có trong bản mô tả ban đầu mà chỉ được thể hiện trong Bản vẽ hoặc Tóm tắt hay không?

Người nộp đơn sáng chế có thể sửa đổi yêu cầu bảo hộ để kết hợp một dấu hiệu mới không có trong bản mô tả ban đầu mà chỉ được thể hiện trong Bản vẽ hoặc Tóm tắt.

 

2. Theo quy định về bằng sáng chế của Việt Nam, liệu có thể vượt qua việc từ chối cấp bằng độc quyền sáng chế bằng cách đưa ra hiệu quả của sáng chế không được mô tả trong bản mô tả hay không? Thẩm định viên có chấp nhận sự giải thích như vậy để đưa ra quyết định về khả năng cấp bằng sáng chế không?

Có thể vượt qua việc từ chối cấp bằng độc quyền sáng chế do Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành bằng cách đưa ra hiệu quả của sáng chế không được mô tả trong bản mô tả. Tuy nhiên, lời giải thích này có thể được chấp nhận hay không sẽ phụ thuộc vào thẩm định viên chịu trách nhiệm xác định khả năng cấp bằng sáng chế (Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế, Điểm 23.9.2 &3 và Quy tắc 23.10).

 

3. Khi các điểm yêu cầu bảo hộ được sửa đổi dựa trên các mô tả của bản mô tả ban đầu, giới hạn mới được kết hợp có nhất quán với các sửa đổi như được nêu trong bản mô tả ban đầu hay không, hoặc nếu giới hạn mới được kết hợp có nguồn gốc trực tiếp và rõ ràng từ các sửa đổi mà đã có trong đơn đăng ký, thì có thể chấp nhận thay thế hoặc kết hợp các cách thức sửa đổi này hay không? Liệu thẩm định viên có thể phản đối bản mô tả đã sửa đổi do thiếu sự hỗ trợ của thông số kỹ thuật ban đầu hay không?

Điều này phụ thuộc vào từng trường hợp. Tuy nhiên, thẩm định viên, dù chỉ một chút, có thể từ chối bản mô tả đã sửa đổi, vì “phần sửa đổi không được hỗ trợ trong bản mô tả ban đầu”.

 

4. Có cách diễn đạt nào không phù hợp với yêu cầu bảo hộ không? ví dụ: các từ quan hệ, “về” “đáng kể”, v.v. “tốt hơn” “quan trọng”, v.v. “như”, “chẳng hạn”.

Các từ như “về”, “đáng kể”, “tốt nhất là” “quan trọng”, v.v. “như”, “chẳng hạn” không nên được đưa vào các yêu cầu bảo hộ trong trường hợp các cụm từ này làm cho đặc điểm (dấu hiệu) của yêu cầu bảo hộ trở nên khó xác định (Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế, Điểm 5.7.3.2c).

 

5. Các cụm từ như “có thể”, “có khả năng” và “phù hợp với” có được chấp nhận không? Những cụm từ như vậy được diễn giải như thế nào? Những cụm từ như vậy có ảnh hưởng đến kết cấu yêu cầu bảo hộ không?

Các cụm từ như “có thể”, “có khả năng” và “phù hợp với” không được chấp nhận nếu các cụm từ này làm cho các đặc điểm (dấu hiệu) trong yêu cầu bảo hộ trở nên khó chính xác (Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế, Điểm 5.7.3.2c ).

 

6.Có thể thực hiện trao đổi với giám định viên của Cục SHTT Việt Nam không? Liệu kết quả của cuộc trao đổi có phải là đánh giá chính thức?

 Trong các đơn xin cấp bằng sáng chế, chúng tôi thường tiến hành trao đổi với giám định viên qua điện thoại hoặc gặp trực tiếp. Sau cuộc trao đổi, chúng tôi có thể đưa ra kết luận về các vấn đề đã thảo luận bằng văn bản dưới dạng giấy tờ/báo cáo làm việc và được coi là đánh giá chính thức. Các giấy tờ/báo cáo này sẽ được ký bởi thẩm định viên và người nộp đơn và có thể được nộp trực tiếp cho các thẩm định viên.

 

7. Thẩm định viên có từ chối hoặc phản đối đơn dựa trên “Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế của Cục SHTT Việt Nam” không?

Trên thực tế, Thẩm định viên có thể từ chối hoặc đưa ra ý kiến phản bác đơn đăng ký dựa trên Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

 

Sửa đổi bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam

 

1. Về các sửa đổi sau khi được cấp bằng độc quyền sáng chế, có thể thêm các dấu hiệu vào yêu cầu phụ thuộc dựa trên bản mô tả sáng chế không? Chúng tôi có phải thêm các dấu hiệu trong các điểm yêu cầu bảo hộ tương tự như đối với Trung Quốc hay không?

Theo Điều 97, Luật SHTT Việt Nam, sau khi quyết định cấp bằng độc quyền được ban hành, người nộp đơn đăng ký sáng chế có thể sửa chữa, bổ sung các yêu cầu nêu trong đơn đăng ký sáng chế, với điều kiện là sửa chữa hoặc sửa đổi đó thu hẹp phạm vi của các yêu cầu bảo hộ. Trong trường hợp này, đơn phải được thẩm định lại và người nộp đơn phải trả phí thẩm định lại nội dung.